Thâu lược văn học Ava_0110Thâu lược văn học Ava_0310
levinhlamdh_tv
Thâu lược văn học Ava_0710Thâu lược văn học Ava_0910
levinhlamdh_tv
Danh Hiệu Đại Tá

Đại Tá
Tổng số bài gửi : 186
Join date : 29/12/2008
Tuổi : 34
Thâu lược văn học Vide10
Thâu lược văn học Thtx_010Thâu lược văn học Thtx_011Thâu lược văn học Thtx_012
Thâu lược văn học Thtx_013

Tiêu Đề: Thâu lược văn học



Very Happy Thâu lược văn học

Văn học thời Lý


1.Văn học thời Lý mang nặng hệ ý thức Phât giáo :
a.Đặt điểm của văn học thời Lý là lực lượng các nhà sư sáng tác chiếm đa số trên văn đàn. Theo sách “ Thiền uyển tập anh”, đời Lý có khoảng hơn 40 nhà sư sáng tác với những tên tuổi tiêu biểu như: Mãn Giác, Viên Chiếu, Viên Thông, Không Lộ, Quảng Nghiêm…Trong số đó, nhiều hà sư chiếm địa vị cao trong xã hội và triều đình nhà Lý. Sự thống lĩnh văn đàn của các nhà sư có thể giải thích bằng những nguyên nhân sau:
-Ở thời kỳ này, Phật giáo chiếm vị trí độc tôn trong đời sống tin thần của dân tộc, sự bàng trướng của Phật giáo dẫn đến nhu cầu rộng rãi trong nhân dân là tìm hiểu, học tập những vấn đề triết lý của Phât giáo. Để đáp ứng nhu cầu đó, bên cạnh viêc thuyết giảng, các nhà sư còn tìm cách truyền phổ đạo Phật bằng cách thể hiên các nội dung triết lý vốn rất trừu tượng khó hiểu qua hình thức các bài kệ ngắn gọn, sinh động dễ nhớ, dễ hiểu giúp người học đạo được thuận lợi hơn trong quá trinh nghiên cứu, học tập.
-Văn học thời kỳ này được viết bằng chữ hán nên chỉ có các nàh sư mới dùng trình độ uyên bác để sáng tác thơ văn.
b.Thiền Tông là chi phái thể hiện khá rõ quan niệm triết học trong tac phẩm của các nhà sư đời Lý. Nó thiên về sự tu dưỡng tự thân, lấy tâm định làm phép tu dưỡng. Điều này được thượng sĩ Trần Quốc Tảng tóm tắt trong một câu nói gọn nhưng có giá trị khát quát toàn bộ của những vấn đề cơ bản của triết học Thiền tông: “ Phật tức tâm, tâm tức Phật”( phật tâm ca)
c.Quan niệm triết học của chi phái Thiền tông thể hiện rõ trong văn học đời Lý qua các nội dung chủ yếu sau:
+Thiên địa vạn vật cùng một thể và chính vì thế, trước đức phật, mọi người đều bình đẳng. Dựa trên quan niệm đó, văn học phật gíao đời Lý thường thể hiện sự tuo7gn đồng của sự vĩnh cửu của bản ngã.
“ Bát ngã chân vô tông
Nhân không ngã diệt không
Quá hiện vị lai Phật
Pháp lính bản tương đồng”(Lý Thái Tông)
Bản ngã của mọi người đều giống nhau, đều quay về chử “ không” vốn là bản thể vũ trụ, là cái hằng thường, bất diệt, là điểm tận cùng của mọi quá trình biến đổi. Cho nên Đoàn Văn Khâm trong bài “ Vãn Quảng Trí Thiền sư” đã viết:
“Các đạo hữu không nên đau thương về sự vĩnh biệt
Núi sông trước chùa trông ra ấy là chân hình của nhà sư”
Nhà sư đã mất nhưng chân thể, bản thể vẫn còn tồn tại trong thế giới, trong vạn vật. Đó chính là sự tương đồng và vĩnh cửu của bản ngã.
+Quan niệm “ sắc không” cho rằng thế giới biến hóa vô cùng. Kiều Bản Tịnh trong ‘ Kính trung bất hình tượng” đã so sánh cái “ có” trong thế giới hiện hữu của con người thực chất chỉ là”huyễn”, cái “không” mới chính là “thực”, là sự tồn tại vĩnh cửu của con người. Điều này giống như sự tồn tại của cái bóng trong gương:
“Huyễn thân bản tự không tịch mịch
Do như kính trung xuất hình tượng
Hình tượng giác liễu nhất thiết không
Huyễn thân tu du chứng thực tướng”
( Thân huyễn ảo vốn từ cái không mà ra-Giống như trong gương xuất hiện hình tượng-Một khi biết đượchình tượng chỉ là không-Thân huyễn ảo có thể chứng nhận được thực tướng của con người)
Nguyên phi Ỷ Lan kêu gọi hãy gạt bỏ mọi phán đoán về cái “sắc” và cái “không” trong thế giới vạn vật và chỉ có như vậy, người học đạo mới tiến đến chỗ “khế hợp với chân tông”:
“Sắc tức không, không thị sắc
Không thị sắc sắc tức không
Sắc không câu bất quản
Phương đắc khế chân tông”
( Sắc là không, không là sắc-Không là sắc, sắc là không-không quan tâm đến sắc và không nữa-Thì mới kết hợp được với chân tông)
Bài kệ nổi tiếng “Cáo tật thị chúng” của nhà sư Mãn Giác là một ví dụ tiêu biểu cho quan niệm “sắc không” của nhà Phật qua sự đối sánh giữa thời gian tuần hoàn, vô cùng vô tân của vũ trụ với thời gian tuyến tính ngắn ngủi trong cuộc sống con người. Bài thơ tuy thể hiện quan niệm triết học của Phật giáo nhưng cũng mang lại niềm hy vọng cho con người trong cuộc sống:
“Xuân khứ bách hoa lạc
Xuân đáo bách hoa khai
Sự trục mãn tiền quá
Lão tòng đầu thượng lai
Mạc vị xuân tàn hoa lạc tận
Đình tiền tạc dạ nhất chi mai”
( Xuân qua trăm hoa rụng-Xuân đến trăm hoa đua nở-Việc đời trôi qua trước mắt-Cảnh già hiện ra trên mái đầu-Chớ bảo rằng xuân tàn hoa rụng hết-Đêm qua sân trước một nhành mai)
d.Tuy nhiên, là nhà thơ, các vị tăng lữ vẫn trải cảm xúc chân thành của mình trong những bài thơ tả cảnh thiên nhiên tươi đẹp. Khung cảnh trng thơ của các nhà sư vẫn chịu sự chi phối của cái nhìn “sắc không”. Chẳng hạn:
“Vạn lý thanh gian vạn lý thiên
Nhất thôn tang giá nhất thôn yên
Ngư ông thụy trước vô nhân hoán
Quá ngọ tỉnh lai tuyết mãn thuyền”( Ngư nhàn-Không Lộ)
( Mây xanh nước biếc muôn trùng-Một vùng khói tỏa một vùng dâu đay-Ông chài ngủ tít ai lay-Quá trưa tỉnh dậy tuyết bay đầy thuyền)
e.Mặt khác, trong thơ văn của các nhà sư đời Lý, ta còn có thể bắt gặp những tư tưởng tích cực, tiến bộ, xa lạ với quan niệm của Phật giáo chính thống:
-Những ý kiến chống quan điểm giáo điều của trường phái cực đoan cho rằng phải tuyệt đối thoát ly trần tục.
-Thái độ nhiệt tình, ý thức trách nhiệm của các nhà sư, khát vọng hòa nhật vào cuộc đời, tham gia gánh vát những khó khăn của đất nước trogn thời kỳ đầu xây dựng.
Bài thơ “Thị đệ tử” của Quảng Nghiêm thiền sư thể hiện rõ những tư tưởng nêu trên:
“Ly tịch phương ngôn tịch diệt khứ
Sinh vô sinh, hậu thuyết vô sinh
Nam nhi tự hữu xung thiên chí
Hưu hướng Như Lai hành xứ hành”
( Rời được cõi tịch diệt mới nói chuyện tịch diệt-Sống ở cõi vô sinh mới nói chuyện vô sinh-Nam nhi nên có chí xông lên trời cao-Đừng đi theo con đường của Như Lai cho nhọc xác)
2.Thơ văn đời Lý phản ánh tinh thần yêu nước, lòng tự hào dân tộc :
Bắt đầu từ thời Lý, truyền thống yêu nước trong văn học hình thành và phát triển mãi mãi trong các giai đoạn sau. Hai tác giả tiêu biểu của chủ nghĩa yêu nước trong văn học đời Lý là Lý Công Uẩn và Lý Thường Kiệt. Chủ đề yêu nước trong thơ văn họ thường thể hiện những cung bật trầm hùng khác nhau nhưng ý nghĩa chung nhất vẫn là tiếng nói lạc quan, chiến đấu của thới đại đang vượt qua những thử thách để khẳng định mình.
a.Tác giả Lý Công Uẩn :
Trong lịch sử văn học, tên tuổi của ông gắn liền với bài “Chiếu dời đô” có giá trị lịch sử to lớn bởi lẽ việc đổi quốc hiệu, quốc đô đánh dấu bước chuyển mình trong công cuộc xây dựng cơ đồ độc lập tự chủ của dân tộc Đại Việt, đáp ứng nhu cầu cũng cố vương quyền phong kiến và nguyện vọng chính đáng của nhân dân.
Giá trị văn học của tác phẩm là ở chỗ nó đánh dấu những thành công bước đầu về nghệ thuật viết văn chính luận trong VHTĐ
Bài chiếu đã nâng Lý Thái Tổ lên một tầm cao khác thường. Nó khẳng định một cái nhìn đúng đắn về xu hướng phát triển tất yếu của lịch sử của vị vua khai sáng nhà Lý cách đây gần nghìn năm.
b.Tác giả Lý Thường Kiệt :
Tên tuổi của ông gắn liền cới chiến công chống Tống và hai tác phẩm có giá trị là “Văn lộ bố” và bài thơ thần “Thần”
-Văn lộ bố :
Đặc điểm của bài văn là ngắn gọn, trang trọng, nêu cao chính nghĩa, vạch trần phi nghĩa, lời lẽ hòa nhã nhưng không kém phần đanh thép và thuyết phục
-Bài thơ Thần :
Chiến thắng quân Tống vẻ vang gắn liền tên tuổi của Lý Thường Kiệt với bài thơ “Nam quốc sơn hà” nổi tiếng. Ra đời trong khoảnh khắc nhưng bài thơ lại có giá trị vĩnh viễn bởi nó biểu hiện bản lĩnh, khí phách dân tộc, khẳng định, chân lí ngàn đời: chính nghĩa bao giờ cũng thắng phi nghĩa. Bài thơ còn là viên ngọc quý trong kho tàng văn học cổ:
“Nam quốc sơn hà nam đế cư
Tiệt nhiên định phận tại thiên thư
Như hà nghịch lỗ lai xâm phạm
Nhữ đẳng hành khan thủ bại hư”
( Sông núi nước nam vua Nam ở-Rành rành định phân ở sách trời-Cớ sao lũ giặc sang xâm phạm-Chúng bay sẽ bị đánh tơi bời)
3.Nhận định chung về văn học đời Lý :
-Với một lực lượng sáng tác đông đảo, các nhà sư đời Lý đã góp phần không nhỏ vào kho tàng văn học cổ. Hướng sáng tác của các nhà sư tuy tập trung thuyết lý cho đạo Phật nhưng vẫn chứa đựng những yếu tố tích cực.
-Giá trị chủ yếu của văn học đời Lý vẫn là những tác phẩm thể hiện chủ nghĩa yêu nước mà trong đó. “Chiếu dời đô” và bài thơ “Thần” là hai viên ngọc sáng ngời, một bản tuyên ngôn dựng nước, một bản tuyên ngôn giữ nước. Số lượng sáng tác không nhiều nhưng chủ nghĩa yêu nước vẫn dđược nêu cao và hình thành môt truyền thống phát triển mãi mãi trong các giai đoạn sau.

Văn học đời Trần


1.Bối cảnh lịch sử và những đổi thay trong tầng lớp nho sĩ đời Trần :
-1226 Nhà Trần cướp ngôi nhà Lý
-1257, 1285, 1287 ba lần kháng chiến chống Nguyên Mông
-Nhiệm vụ bảo vệ tổ quốc gắn liền với xây dựng đất nước.
-Thuật trị nước “khoan sức dân” tiến bộ đời Trần đã kích thích xã hội ngày càng ổn định và phát triển.
-Tầng lớp nho sĩ trở thành lực lượng chính tham gia xây dựng đất nước. Họ gần gũi với quần chúng hơn nên thơ họ phản ánh đúng nhu cầu, nguyện vọng của quần chúng.
-Những vấn đề văn hóa, xã hội, nghệ thuật cũng phát triển mạnh mẽ dưới triều Trần.
2.Nội dung văn học :
a.Văn học Trần phản ánh lòng yêu nước tinh thần dân tộc :
-Cũng như văn mảng thơ văn đời Lý, văn học đời Trần tập trung xoáy mạnh vào đề tài chống quân Nguyên xâm lược với cảm hứng chủ đạo là lòng yêu nước và tinh thần tự hào dân tộc.
-Điển hình cho chủ nghĩa yêu nước trong văn học đời Trần là tác phẩm “Hịch tướng sĩ” của Trần Quốc Tuấn. Tác phẩm ra đời vào 1285, khi quân Nguyên Mông kéo sang nước ta lần thứ hai ( trong thời điểm nhà Trần tổ chức hội nghị bình Than hội nghị Diên Hồng, tháng 2-1285). Hịch thuộc loại văn chính luận được vua, lãnh tụ khởi nghĩa hay tướng lĩnh quân đội viết ra nhằm động viên mọi người chiến đấu. Văn phong hịch trang trọng, cách xưng hô rõ ràng, lập luận chặt chẽ, bố cục hợp lý. Tuy nhiên ở “Hịch tướng sĩ”, bên cạnh yếu tố chính luận, chất lý trí được thể hiện đậm nét, còn có sự xuất hiện của các hình ảnh nghệ thuật đặc sắc và những sắc thái tâm trạng, cảm xúc hết sức mảnh liệt, tinh tế. Tác phẩm không chỉ phê phán căn bệnh thờ ơ, vô trách nhiệm của các tỳ tướng, cảnh tỉnh, khuyến khích, động viên họ thực hiện trách nhiệm công dân trong hoàn cảnh dầu sôi lửa bỏng của đất nước mà còn bộc lộ rõ những tình cảm chân thành của tác giả đối với tổ quốc, nhân dân, đối với tầng lớp tỳ tướng dưới quyền. Mặt khác qua tác phẩm, ta cũng có thể tìm thấy những phẩm chất cao đẹp của con người yêu nước thời Trần như: Nhận thức rõ ràng, đúng đắn về hoàn cảnh khó khăn của đất nước, có lòng căn thù giặc sâu sắc, có tinh thần cảnh giác cao độ, có lập trường vững chắc, có khát vọng chiến thắng và trên hết là tinh thần sẵn sàng chiến đấu hy sinh vì tố quốc. Đây là một tác phẩm có giá trị lịch sử, văn chương to lớn, khẳng định bước tiến mới của dòng văn học yêu nước trong văn học trung đại Việt Nam.
Bên cạnh đó, cuộc chiến đấu chống Nguyên Mông cũng là đề tài phong phú của nhiều nhà thơ khác đời Trần. Tác phẩm của họ thường tập trung vào các chủ đề sau:
+Ca ngợi khí phách hào hùng, chiến thắng vẻ vang của dân tộc:
“Đoạt sóc Chương Dương độ
Cầm hồ Hàm Tử quan
Thái bình tu nỗ lực
Vạn cổ thử giang san”
( Chương Dương cướp giáo giặc-Hàm Tử bắt quân thù-Thái bình nên gắn sức-Non nước ấy ngán thu)
+Ca ngợi hào khí Đông A bằng những hình ảnh đẹp đẽ, kỳ vĩ và nhấn mạnh ý thức trách nhiệm của mỗi người công dân trong cuộc sống chiến đấu chung của toàn dân tộc:
“Hoành sóc giang san cáp kỷ thu
Tam quân tỳ hổ khí thôn ngưu
Nam nhi vị liễu công danh trái
Tu thính nhân gian thuyết Vũ Hầu”( Thuật hoài-Phạm Ngũ Lão)
( Múa giáo non sông trải mấy thâu-Ba quân khí mạnh át sao Ngâu-Co6ng danh nam tử còn vương nợ-Luống thẹn tai nghe chuyện Vũ Hầu)
+Nêu cao sức mạnh của chính nghĩa, của vấn đề “đức” trong cuộc sống chiến đấu bảo vệ tổ quốc:
“Giặc tan muôn thuở thanh bình
Phải đâu đất hiểm cốt mình đức cao”
(Bạch Đằng giang phú-Trương Hán Siêu)
Nội dung yêu nước không chỉ được thể hiện trong bối cảnh cuộc kháng chiến xâm lượt mà còn phát triển trên những khía cạnh tình cảm phong phú của nhà thơ. Có khi đó là nổi nhớ nhà thầm lặng nhưng mảnh liệt của một nhà Nho xa quê hương:
“Dâu già lá rụng tằm vừa chín
Lúa sớm nở hoa cua béo ghê
Nghe nói quê nhà nghèo vẫn tốt
Giang nam vui thú chẳng bằng về”( Quy hứng-Nguyễn Trung Ngạn)
Có khi đó là niềm khát khao được xây dựng một đất nước thịnh vượn hòa bình muôn đời:
“Xã tắc hai phen bon ngựa đá
Non sông nghìn thuở vững âu vàng”
(Xuân nhật yết Chiêu lăng-Trần Nhân Tông)
Yêu nước còn thể hiện bằng niềm hạnh phúc được nhìn thấy đất nước hòa bình, được sống trong hòa bình:
“Trăm vô sự chiếu người vô sự
Nước ngậm thu lồng trời ngậm thu
Bốn bề đã yên nhơ đã lắng
Chơi năm nay thú vượt năm xưa”
(Hạng Thiên Trường hành cung-Trần Thánh Tông)
Có thể nói, trong lịch sử dân tộc, vương triều nhà Trần là một vương triều hùng mạnh nhất. Đây là thời kỳ mà mọi ý thức về quốc gia dân tộc đều phát triển mạnh mẽ và đó cũng chính la nền tảng cho sự phát triển của văn học yêu nước.
b.Văn học đời Trần thể hiện lòng yêu mên cảnh thiên nhiên tươi đẹp :
So với thiên nhiên trong thơ văn đời Lý, thiên nhiên trong thơ văn đời trần thực hơn, đẹp hơn. Các nhà thơ đã bắt đầu chú ý miêu tả đời sống thôn dã bình dị. Cảm xúc được thể hiện tinh tế hơn. Đặc biệt, qua việc miêu tả thiên nhiên, các tác giả thường chú ý bộc lộ niềm tự hào về những chiến tích oanh liệt của dân tộc.
Bài thơ “Thiên Trường Vãn Vọng” của Trần Nhân Tông là một trong những ví dụ tiêu biểu cho cái nhìn mới của các nhà thơ đời Trần đối với cuộc sống bình dị của ngưới lao động:
“Thôn hậu thôn tiền đạm tự yên
Bản vô bán hữu tịch dương biên
Mục đồng địch lý ngưu quy tận
Bạch lộ song song phi hạ điền”
( Xóm trước thôn sau tựa khói lồng-Bóng chiều như có thắt dường không-Mục đồng thổi sáo trâu về hết-Cò trắng từng đôi liệng xuống đồng)
Cảnh vật được miêu tả bằng ngôn từ giản dị nhưng vẫn thể hiện được cái “thần”, cái đẹp của bức tranh đường đi Lạng Sơn, cảnh chùa Bảo Phúc, động Chi Lăng,Thạch Môn Sơn, cảnh Thiên Trường, cảnh hồng rụng, tiếng chuông văng vẳng,tiếng sáo thuyền câu…
“Mựa tạnh vườn cây màn biếc rủ
Tiếng ve chiều tối rộn bên tai”( Hạ cảnh-Trần Thánh Tông)
Các nhà thơ luôn khát khao thâu tóm được tất cả những chi tiết phong phú của cảnh đẹp thiên nhiên vào bài thơ, cho dù đó là một bài thơ rất ngắn:
“Cổ tự thê lương thu ái ngoại
Ngư thuyền tiêu sắt mộ chung sơ
Thủy minh, sơn tĩnh, bạch âu quá
Phong định, vân nhàn, hồng thụ sơ”
(Lạng sơn Vãn cảnh-Trần Nhân Tông)
( Ngôi chùa cổ ẩn mình sau lớp khói mùa thu-Thuyền câu hiu hắt, chuông chùa bắt đầu điểm-Nước trong, núi lặng, chim âu trắng bay qua-Gió im, mây nhởn nhơ, cây lơ thơ lá đỏ)

Cảm xúc và cách miêu tả của nhà thơ thực sự tinh tế:
“Thụy khởi khải song phi
Bất tri xuân dĩ quy
Nhất song bạch hồ điệp
Phách phách sấn hoa phi”
(Xuân hiểu-Trần Nhân Tông)
( Ngủ dậy ngó song mây-Xuân về vẫn chưa hay-Song song đôi bướm trắng-Phấp phới sấn hoa bay)
Ở nhiều bài thơ, thiên nhiên không chỉ là đối tượng thẫm mỹ mà còn là chiếc chìa khóa mở cánh cửa thế giới tâm trạng sâu kín và phong phú của tác giả. Trần Thánh Tông mượn thiên nhiên cung điện ngày xuân để nói đến tấm lòng nhớ thương ngưới cung nữ xưa:
“Cung môn bản yếm kính sinh đài
Bách trú trầm trầm thiếu vãng lai
Vạn tử thiên hồng không lạn mạn
Xuân hoa như hứa vị thùy khai”
(Cung viên xuân nhật ức cựu)
(Cửa cung khép hở lối đi rêu phủ-Giữa trưa mà vắng người qua lại-Muôn hồng nghìn tía chỉ rực rở suông mà thôi-Hoa xuân đẹp như thế vì ai mà nở)
Trần Minh Tông mượn tiếng mưa đêm để nói đến tâm trạng ân hân khắc khoải, day dứt suốt ba mươi năm vì một quyết định sai lầm dẫn đến cái chết vô tội của hàng trăm người trong vụ án Trần Quốc Chẩn năm 1328):
“Thu khí hòa đăng thất thự minh
Bích tiêu song ngoại độ tàn canh
Tự tri tam thập niên tiền thác
Khẳng bả nhàn sầu đối vũ thanh”( Dạ vũ)
(Hơi thu hòa cùng ánh đèn mờ đi trước ánh ban mai-Giọt mưa rơi trên tàu lá chuối ngoài song cửa tiển canh tàn-Tự biết sai lầm của mình ba mươi năm trước-Nay đành ôm sầu ngồi nghe mưa rơi)
Yêu thiên nhiên, các nhà thơ càng tự hào hơn nữa về những chiến tích oanh liệt của dân tộc:
“Lâu Lãi hang sâu hơn đáy giếng
Chi Lăng ải hiểm tựa trời cao
Ngựa leo, gió lướt ngoảnh đầu lại
Cửa khuyết trời tây mây ráng treo”
(Ải Chi Lăng-Phạm Sư Mạnh)
Các tác giả thường khai thác đề tài sông “Bạch Đằng” với cảm hứng ca ngợi đầy sảng khoái, tự hào:
“Ánh nước chiều hôm màu đỏ khẻ
Tưởng rằng máu giặc vẫn chưa khô”
( Bạch Đằng Giang-Trần Minh Tông)
Có thể nói, thiên nhiên trong thơ văn Trần hết sức phong phú đa dạng. Các nhà thơ đã phát hiện, cảm nhận những vẻ đẹp tuyệt vời của thiên nhiên chứng tỏ họ ngày càng gắn bó hơn với cuộc đời, với con người.
c.Tinh thần nhân đạo và tư tưởng bi quan yếm thế trong thơ văn đời Trần :
-Chủ nghĩa nhân đạo trong thơ văn đời Trần chủ yếu thể hiện qua sự tin tưởng vào khả năng của con người, khát vọng một cuộc sống hòa bình, hạnh phúc, không còn chiến tranh đổ máu, chết chóc. Trương Hán Siêu ca ngợi cái “đức”, cái chính nghĩa của dân tộc Đại Việt. Sử Hy Nhan tuyên bố rõ thái độ chán ghét chiến tranh:
“Kiếm này!Kiếm này là vật chẳng lành
Bậc thánh túng kế mới dùng phải đâu vật quý”
Tuy nhiên, về sau, nhà Trần không tránh khỏi con đường suy thói. Một số nhà nho tiết tháo chán nản lui về cảnh sống ẩn dật trong một tam trạng đầy uất hận. Thơ của họ bộc lộ rõ nổi đau của kẻ sĩ chân chính bất lực trước tình cảnh khốn cùng của quần chúng. Những tư tưởng yếm thế thoát ly của họ chứa đựng ít nhiều giá trị tích cực khi thấm nhuần tinh thần nhân đạo cao cả:
“Hạn rồi qua lụt đã bao phen
Thương nổi đồng điền lúa chẳng lên
Đống sách hóa ra chồng giấy nát
Bạc đầu luống những phụ dân đen”
(Nhâm dần lục nguyệt tác-Trần Nguyên Đán)
Tinh thần nhân đạo còn thể hiện rõ qua thái độ phên phán quyết liệt của các nhà Nho chân chính đối với bọn vua chúa, quan lại, những kẻ có trách nhiệm nhưng chỉ lo vui chơi, hưởng thụ không hề quan tâm đến dân:
“Ngọc hoa dạ chiếu, tuyệt quyền ký
Dục bãi khiêu lai cận xích trì
Nhược sử ái dân như ái mã
Thương sinh hà tất hữu sang di”
(Đề Đường Minh Hoàng dục mã đồ-Chu Đường Anh)
( Ngựa Ngọc Hoa đêm chiếu sáng, chạy nhanh tuyệt vời-Tắm xong dắt đến buộc gần bên thềm son-Giá như vua yêu dân được như yêu ngựa-Thì dân đen đâu đến nổi khổ sở đến này)
Không chỉ đau thương, phẫn uất, các nhà thơ còn bộc lộ niềm mong ước, khát vọng cứu dân giúp đời của kẻ sĩ chân chính:
“Ví làm ống bể lò rèn được
Thổi thấu lòng người khắp chín châu(Nguyễn phi khanh)
Tất nhiên, càng thất vọng, họ càng rơi vào cảnh bế tắc, tuyệt vọng cho nên, thơ của họ chứa đựng những tình cảm bi quan, tiêu cực:
“Trước mắt mọi chuyện đều đáng lo
Hết bệnh sao bằng bệnh vẫn mang”(Trần Nguyên Đán”
“ Liễu phố tam thu vũ
Quân bồng bán dạ thanh
Cô đãng minh hựu diệt
Hồ hải thập niên tình”
( Hoàng giang dạ vũ-Nguyễn Phi Khanh)
3.Nhận xét chung về thơ văn đời Trần :
-Thơ văn đời Trần đành dấu một bước phát triển mới của văn học trung đại Việt Nam
-Chủ đề yêu nước là chủ đề tập trung và đạt được nhiều thành tựu trong văn học đời Trần. Tuy nhiên, thời kỳ này chưa có những tác phẩm mô tả một cách toàn bích cuộc chiến đấu mang tầm vóc lịch sử to lớn. Đây là một thiếu sót mà văn học thế kỷ XV sẽ bổ sung.


Vấn Đề 3: Văn học trung đại II
(Đến nửa thế kỷ XVIII, nửa đầu thế kỷ XIX)

1. Bối cảnh lịch sử-xã hội, tư tưởng, văn hóa :
1.1 Bối cảnh lịch sử-xã hội :
1.1.1 Chế độ phong kiến Việt Nam bước vào thời kỳ khủng hoảng, suy vong trầm trọng :
Chế độ phong kiến Việt Nam cực thịnh nhất vào thế kỷ XV, sang thế kỷ XVI, XVII chế độ này đã bộc lộ những dấu hiệu của sự suy yếu. Mầm móng của cuộc khủng hoảng nội bộ đã xuất hiện. Đây là hai thế kỷ nội chiến phong kiến.
Đến nửa thế kỷ XVIII, nửa đầu thế kỷ XIX thì sự suy yếu này không còn là dấu hiệu nữa. Có thể nói chế độ phong kiến Việt Nam đã bước vào thời kỳ khủng hoảng, suy vong trầm trọng, chuẩn bị cho sự sụp đổ toàn diện của chế độ này vào cuối thế kỷ XIX, đầu thế kỷ XX.
+ Kinh tế: Thành phần kinh tế chính của đất nước ở giai đoạn này vẫn là kinh tế nông nghiệp. Nền kinh tế này bị đình đốn. Kinh tế sản xuất hàng hóa cũng bị kìm hãm
+ Chính trị: Như một quy luật, kinh tế đình đốn thường dẫn đến sự hỗn loạn về chính trị. Những mâu thuẫn vốn có, chứa chất lâu ngày trong lòng chế độ phong kiến Việt Nam đến giai đoạn này đã có dịp bùng nổ dữ dội: Mâu thuẫn trong từng nội bộ tập toàn phong kiến; mâu thuẫn giữa tập đoàn phong kiến Đàng Trong với tập đoàn phong kiến Đàng ngoài; mâu thuẫn giữa quần chúng lao động mà chủ yếu là nông dân với giai cấp thống trị.
+ Văn hóa: Nhà Nguyễn cấm dùng chữ Nôm, hạn chế cách ăn mặc và làm nhà cửa, cấm đạo, kiểm soát học tập thi cử gắt gao, cấm đoán về mặt tư tưởng rất nghiệt ngã.
+ Đạo đức: giai đoạn này xuất hiện những bạo chúa khét tiếng dâm ô, tàn ác như Trịnh Giang (1728-1740), Trịnh Sâm (1767-1782)
+ Ngoại giao: Trước đó chưa bao giờ giai cấp thống trị lại tỏ ra bế tắc về trí tuệ, sa đọa về đạo đức và cùng mòn trong lĩnh vực ngoại giao như giai đoạn này. Thế kỷ này phải chứng kiến cảnh những ông vua bán nước cấu vinh như Lê Chiêu Thống (1787-1789) và Nguyễn Ánh đầu thế kỷ XX

Tóm lại, giai đoạn nửa cuối thế kỷ XVIII, nửa đấu thế kỷ XIX chế độ phong kiến Việt Nam lâm vào tình trạng khủng hoảng sâu sắc. Sự khủng hoảng này còn được biểu hiện ở sức trỗi dậy mãnh liệt với một khí thế chưa từng có của phong trào nông dân khởi nghĩa.
1.1.2 Nhân dân vùng lên mãnh liệt có lúc giành được thắng lợi vẻ vang nhưng rồi lại thất bại :
- Giai đoạn này được mang vinh hiệu là”Thế kỷ nông dân khởi nghĩa”. Có thể nói đây là thời kỳ đấu tranh liên tục, mạnh mẽ, rộng khắp của quần chúng mà chủ yếu là nông dân.
+ Tính chất mạnh mẽ thể hiện ở chỗ có những cuộc khởi nghĩa tập trung hàng vạn người, kéo dài hành chục năm như cuộc khởi nghĩa của Nguyễn Hữu Cầu (1741-1751); cuộc khởi nghĩa của Nguyễn Danh Phương (1740-1750); cuộc khởi nghĩa của Hoàng Công Chất (1736-1769)…
+ Tính chất rộng khắp thể hiện ở chỗ các cuộc khởi nghĩa nổ ra khắp mọi miền đất nước
- Đỉnh cao của phong trào khởi nghĩa lúc này là cuộc khởi nghĩa Tây Sơn bùng nổ vào năm 1771 ở ấp Tây Sơn, phủ Quy Nhơn. Cuộc khởi nghĩa này đã dành được những thắng lợi vẻ vang: Đánh đổ ba tập đoàn phong kiến thống trị trong nước (Vua Lê, chúa Trịnh, chúa Nguyễn); Đánh tan hơn hai mươi vạn quân Thanh xăm lược(1789), lập nên một vương triều phong kiến mới với nhiều chính sách tiến bộ ( khôi phục ruộng đất bỏ hoang, mở rộng ngoại giao, đề cao chữ Nôm…)
- Nhưng đáng tiếc là Quang Trung chỉ ở ngôi được mấy năm, sau khi Quang Trung mất, nhà Tây Sơn lại trở nên lục đục.. Nhân cơ hội ấy, Nguyễn Ánh đã trở lại tấn công nhà Tây Sơn, lập nên triều đại nhà Nguyễn (1802). Triều nguyễn là một tân triều, nhưng triều nguyễn không đại diện cho cái mới. Buổi đầu, để củng cố địa vị thống trị của mình nhà Nguyễn còn thực hiện một số chính sách tiến bộ, nhưng càng về sau nhà Nguyễn càng đi vào con đường phản động để rồi trở thành môt triều đại phản động nhất trong các triều đại Việt Nam. Vì thế dưới triều địa nhà Nguyễn, các cuộc khởi nghĩa của nông dân vẫn liên tiếp xảy ra.
Tuy nhiên khởi nghĩa nông dân trong hoàn cảnh của xã hội đương thời không thể đi đến thắng lợi hoàn toàn và triệt để. Khởi nghĩa của nông dân chỉ mới là động lực thúc đẩy xã hội phát triển chứ chưa thể làm thay đổi chế độ xã hội.
1.1.3 Lực lượng thị dân :
- Nền kinh tế hàng hóa vốn xuất hiện từ thế kỷ XVI, thế kỹ XVII đã có nhiều bước phát triển đáng kể, đến giai đoạn này lại bị nhiều chín sách kinh tế phản động của chính quyền phong kiến kìm hãm cho nên nó chưa phát triển thành một cơ cấu kinh tế mới để rồi tạo ra một giai cấp tư sản, nhưng cùng với sự đi lên của thành phần kinh tế này thì tầng lớp thương nhân, thợ thủ công xuất hiện ngày càng đông đảo tập trung ở các thương cảng, đô thị.
Tầng lớp này do sinh hoạt kinh tế đã li khai phần nào với quan hệ sản xuất phong kiến, họ lại đi đây đi đó nhiều, giao tiếp rộng rãi kể cả giao tiếp với người nước ngoài (dù chưa nhiều) nên tư tưởng tình cảm phóng khoáng hơn người nông dân vốn bị trói buộc vào làng quê, hơn cả tầng lớp nho sĩ vốn bị rập khuôn theo trăm ngàn thể chế, giáo điều chính thống cứng nhắc. Tư tưởng tình cảm của họ đã có những yếu tố phi chính thống, mang màu sắc dân chủ. Trong đó đã bắc đầu bộc lộ ý thức về quyền sống cá nhân. Vì vậy sự có mặt của tầng lớp này đã tạo ra những làn gió mới lan tỏa vào đời sống tư tưởng, tình cảm của con người thời đại.
Tóm lại: Lịch sử dân tộc ta giai đoạn này là lịch sử đau thương nhưng quật khởi, có bi kịch nhưng cũng có anh hùng ca. Nhìn về phía giai cấp thống trị là cả một sự sụp đổ, tan rã toàn diện của bộ máy quan liêu, của kỷ cương, của lễ giáo phong kiến, và nói chung là của toàn bộ cơ cấu xã hội. Song nhìn về phía quần chúng thì đây là thời kỳ quật khởi, thế kỷ bảo táp của phong trào nông dân khởi nghĩa, là thời đại đấu tranh “tháo cũi sổ lòng”, đấu tranh để đói hỏi được xác nhận thân phận, được xác nhận quyền sống tự do và hạnh phúc.
Trải qua nhiều biến động nhưng cuối cùng xã hội Việt Nam vẫn lâm vào tình trạng bế tắc không lối thoát. Cho đến cuối thế kỷ XIX, xã hội Việt Nam vẫn nằm trong vòng vây của chế độ phong kiến. tuy vậy phong trào đấu tranh rầm rộ của quần chúng liên tiếp nổ ra trong suốt thế kỷ cũng đã làm bùng dậy nhiều khát vọng lành mạnh, làm quật cường thêm tinh thần dân tộc, tinh thần đấu tranh chống áp bức, bóc lột, cổ vũ sự vươn dậy của tài năng, trí tuệ của con người. Phong trào đấu tranh của quần chúng và sự xuất hiện của tầng lớp thị dân sẽ là một trong những cơ sở xã hội quan trọng để truyền thống nhân văn của dân tộc kết tinh một cách rực rỡ trong giai đoạn này
1.2 Đời sống tư tưởng :
1.2.1 Sự phá sản nghiêm trọng của ý thức hệ phong kiến :
Trong nhiều thế kỷ giai cấp phong kiến Việt Nam đã lấy Nho giáo làm ý thức hệ chính thống, dựa vào Nho giáo để thống trị nhân dân. Khi chế độ phong kiến đang trên con đường phát triển đi lên thì Nho giáo có uy lực của nó.. Nhưng đến giai đoạn này chế độ phong kiến đã bước vào thời kỳ khủng hoảng, suy vong trầm trọng vì thế mà Nho giáo cũng bị đã kích, bị xâm phạm, ý thức hệ này không còn gì là thiêng liêng cao quý nữa.
Sự phá sản này chủ yếu phát sinh từ sức công phá của trào lưu tư tưởng nhân văn của thời đại và từ hàng ngũ của giai cấp thống trị kẻ đã khẳng định, tôn sùng nuôi dưỡng ý thức hệ này. Những cái được gọi là tam cương, ngũ thường của Nho giáo điều bị vi phạm một cách trắng trợn, mạnh mẽ trước hết từ trong cung vua, phủ chúa. Hoàng lê nhất thống chí đã phản ánh một cách sâu sắc sự sụp đổ này của ý thức hệ Nho giáo.
Sống trong thời đại nho giáo bị sụp đổ thảm hại như vậy, một số nhà nho chân chính bị khủng hoảng về mặt lý tưởng. Lý tưởng mà giáo lý phong kiến đã vạch ra cho các nhà nho như một con đường mòn là tu thân, tề gia, trị quốc, bình thiên hạ và thượng trí quân hạ trạch dân, nhưng đến giai đoạn này lý tưởng ấy không còn cơ sở xã hội để thực hiện. Bởi vì trước mắt các nhà nho vua không ra vua, chúa không ra chúa, họ không còn minh quân để tôn thờ, để làm một bề tôi hiền. Nhiều trí thức chân chính của thời đại đã thực sự rơi vào bi kịch, họ mang một tâm trạng bế tắc. Thiên tài Nguyễn Du đã từng day dứt:
“Tráng sĩ bạch đầu bi hướng thiên
Hùng tâm sinh kế lưỡng mang nhiên
Xuân lan thu cúc thành hư sự
Hạ thử, đông hàn đoạt thiếu niên”
(tạp thi)
(Người chiến sĩ bạc đầu đau xót ngửng mặt nhìn trời, hoài bảo cao xa, sinh kế hằng ngày đều cùng mờ mịt, cái thú hoa lan mùa xuân, hoa cúc mùa thu là chuyện hảo. Cái oi bức của mùa hè và sự giá rét của mùa đông làm tiêu tan chí khí tuổi trẻ)
Nhà nho đầy tâm huyết- Lê Hữu Trác cũng từng than thở:
“Nhập Tần kí bất khả
Qui Hán diệc vị hoàng
Hồ hải không phiêu lãng
Tráng tâm thành đại cuồng”
Thuật hoài
(Tìm đường về Hán chưa xong
Sang Tần thì việc đã không nên rồi
Bể Hồ trôi dạt đôi nơi
Cho người tráng sĩ ra người cuồng ngông)
Nguyễn Trọng thuật dịch
Mất niềm tin vào chính quyền, vào minh chúa số đông nho sĩ đã lui về ở ẩn, hoặc đang làm quan cũng lui về ở ẩn để giữ gìn khí tiết, nhân cách của mình.. Nhưng họ lại ở ẩn trong một giai đoạn rất đặc biệt- gia đạon khởi đầu của nông dân đang trở thành vũ bão. Âm vang của phong trào ấy vẫn luôn tác động họ, thức tỉnh họ làm cho thế giới quan của các nhà nho phần nào bị rạn nứt, giúp họ có thể li khai một phần nào với lập trường, tư tưởng chính thống để tiếp thu những tư tưởng tình cảm lành mạnh của trào lưu tư tưởng nhân văn của thời đại. Từ đó họ có một cách nhìn mới, cách cảm mới đối với cuộc sống và con người. Có thể nói đây là nguyên nhân trực tiếp tạo nên những yếu tố tiến bộ trong nội dung của văn học giai đoạn nữa thế kỷ XVIII, nữa đầu XIX.
1.2.2 sự kết tinh của truyền thống nhân văn :
Trong khi Nho Giáo bị sụp đổ thì một khuynh hướng tư tưởng nhằm bảo vệ, khẳng định quyền sống, giá trị và phẩm chất con người đã phát triển thành một khuynh hướng mạnh mẽ. Thực ra khuynh hướng này không phải đến giai đoạn này mới xuất hiện, nhưng nếu ở các giai đoạn trước tư tưởng này được xuất hiện dưới dạng những yếu tố, đến nửa cuối thế kỷ XVIII nửa đầu thế kỷ XIX khuynh hướng này đã bộc phát lên như một tư trào thực sự. Có thể nói đây là một giai đoạn mà truyển thống nhân văn của dân tộc được kết tinh một cách rực rỡ.
+ Cơ sở xã hội: Phong trào đấu tranh mạnh mẽ của quần chúng bị áp bức mà chủ yếu là của nông dân chống phong kiến đã liên kết nổ ra suốt thế kỷ không chỉ làm quật cường thêm tinh thần dân tộc, tinh thần đấu tranh chống áp bức bóc lột của quần chúng, mà còn khơi dậy nhiều khát vọng lành mạnh, đã cổ vũ cho sự vươn dậy của tài năng, trí tuệ của con người. Phong trào đấu tranh của quần chúng sẽ làm nẩy sinh nhiều yếu tố dân chủ trong đời sống. Vì thế có thể nói chủ nghĩa nhân đạo nói trên chính là sản phẩm tinh thần của phong trào đấu tranh của quần chúng đã liên tiếp nổ ra trong suốt thế kỷ.
+ Cơ sở tư tưởng: Ý thức hệ Nho giáo bị sụp đổ, nó không còn chiếm được lòng tin của con người, không còn khả năng trói buộc đời sống tư tưởng tình cảm của con người và che lấp con người như các giai đoạn trước.
Trong khi Nho giáo bị sụp đổ thì Phật Giáo lại phát triển. Tư tưởng từ bi bác ái là một trong những tư tưởng nổi bật của phật Giáo cũng đã góp phần tạo nên chất vị tha, không chỉ là trên phương diện tư tưởng, mà còn là cảm xúc, là tình thương bao la góp phần làm giàu thêm chất nhân văn của văn học trung đại Việt Nam nói chung và văn học giai đoạn này nói riêng.
Sự xuất hiện của tu tưởng thị dân cũng sẽ là tiền đề tư tưởng quan trọng để truyền thống nhân văn của dân tộc kết tinh một cách rực rỡ.
+ Cơ sở văn học: Các giai đoạn trước đã có nhiều tác phẩm viết về tình yêu tư do, đòi giải phóng cá nhân. Những tiếng nói ấy sẽ được tiếp tục và trở nên mạnh mẽ trong giai đoạn này.
Biểu hiện của khuynh hướng tư tưởng nhân văn trong văn học sẽ là sự lên án, tố cáo hiện thực cuộc sống đương thời chà đạp lên quyền sống của con người; đấu tranh đói cuộc sống cơm áo; đòi phát triển cá tính; giải phóng tình cảm, bản năng; là thái độ ca ngợi những phẩm chất tốt đẹp của con người; là thái độ đồng tình; xót thương thông cảm của các tác giả đối với các nạn nhân của xã hội. Những nhân tố nhân đạo của trào lưu tư tưởng này chưa toàn diện, chưa hệ thống, chưa thoát khỏi phạm trù đạo đức của tư tưởng Khổng-Mạnh. Nhưng nó đã cuộn lên như một tư trào thực sự.
Những tư tưởng tiến bộ, những tình cảm lành mạnh của trào lưu tư tưởng này đã vang dội vào đời sống tinh thần của thời đại và có ảnh hưởng sâu sắc đến lực lượng sáng tác, nhất là những nhà nho tiến bộ bởi vì họ là những con người rất nhạy cảm trước cuộc sống. Sự kết tinh của truyền thống nhân văn sẽ là nguyên nhân quan trọng đưa đến bước phát triển rực rỡ của giai đoạn văn học cổ điển Việt Nam.
Tất nhiên ở mõi nhà văn, nhà thơ sự tiếp thu này sẽ không giống nhau, không đồng đều. Nhìn chung do hạn chế của giai cấp xuất thân, của thế giới quan phong kiến nên những người cầm bút không thể tiếp thu nguyên vẹn, đầy đủ những yếu tố tư tưởng tiến bộ nói trên. Thường thì các nhà nho tiếp thu yêu cầu giải phóng tình cảm cá nhân sâu sắc nhất, phần nào họ có nói đến yêu cầu công lí, còn yêu cầu về cơm áo họ tiếp thu một cách khó khăn hơn, thẫm chí có trường hợp yêu cầu này không vượt qua thế giới quan của nhà văn. Đặng Trần Côn, Hồ Xuân Hương, Nguyễn Công Trứ là những trường hợp điển hình.
1.3 Đời sống văn hóa:
Đây là giai đoạn phồn vinh chưa từng thấy của nền văn hóa dân tộc trong suốt thời kỳ phong kiến.
Sự phát triển của mỗi nền văn hóa của mỗi dân tộc không do giai cấp thống trị quyết định, tất nhiên khi giai cấp thống trị còn đóng vai trò trên vũ đài lịch sử thì họ có những tác động tích cực đối với sự phát triển của văn hóa. Nhìn chung sự phát triển của mỗi nền văn hóa luôn luôn do nhân dân quyết định. Đối với giai đoạn này phong trào đấu tranh của quần chúng sẽ là động lực chính cho sự phát triển của nền văn hóa
- Một số ngành đạt được những thành tựu xuất sắc:
+ Khoa học xã hội: Ngành nghiên cứu lịch sử, địa lý phát triển khá mạnh với hai học giả nổi tiếng: Lê Quí Đôn và Phan Huy Chú
+ Khoa học tự nhiên: Nổi bật nhất là ngành y với nhà y học nổi tiếng Lê Hữu Trác
+ Các ngành văn học, nghệ thuật: Chèo ở Đàng ngoài, tuồng ờ Đàng Trong phát triển, văn học chữ Nôm phát triển mạnh, những tác phẩm có giá trị điều được sáng tác bằng chữ Nôm; kiến trúc tôn giáo, nghệ thuật điêu khắc có nhiều thành tựu
- Đặc điểm của nền văn hóa
+ Trước hết là tinh thần duy lí trong quan điểm và phương pháp biên soạn.
Ví dụ: Phương pháp biên soạn sách của Lê Quí Đôn đã chú trọng thực tiễn, óc phán đoán, suy luận khá chặt chẽ.
Việc tiếp nhận những giá trị của văn hóa Trung Hoa thoát li tính chất nô lệ, sùng ngoại để đi vào khuynh hướng tiếp nhận sáng tạo tinh hoa của văn hóa nước ngoài.
+ Tinh thần dân tộc: Biểu hiện ở thái độ nhìn nhận, đánh giá lịch sử dân tộc, văn hóa dân tộc. Lê Quí Đôn trong Toàn viện thi lục lệ ngôn đã viết: “ Nước Việt Nam từ khi mở cõi văn minh không thua kém gì Trung Hoa” của Lê Hữu Trác.
Tóm lại: Những thành tựu rực rỡ của nền văn hóa với những đặc điểm riêng là phẩm tinh thần của hoàn cảnh nói trên. Và nền văn hóa với những đặc điểm riêng ấy đã nâng đỡ ngòi bút của các nhà văn nhà thơ của thời đại để họ có thể viết được những tác phẩm để đời vinh dự cho nền văn học dân tộc.
2. Tình hình văn học:
2.1 Lực lượng sáng tác:
2.1.1 Sự đổi mới về lượng và chất:
- Giai đoạn từ thế kỷ X-XV
Dưới triều đại nhà Lý, lự lượng sáng tác thống lĩnh văn đàn là các nhà sư. Triều đại nhà Trần, bên cạnh tầng lớp nhà sư là các nhà nho. Thời Lê sơ, lực lượng sáng tác chính là các nhà nho.
- Giai đoạn từ thế kỷ XVI đến nửa đầu thế kỷ XVIII
Lực lượng sáng tác chính vẫn là các nhà nho, bên cạnh lực lượng này còn có thêm những cây bút là nho sĩ ở ẩn như Nguyễn Bỉnh Khiêm, Nguyễn Hàng, Nguyễn Dữ.
- Giai đoạn cuối thế kỷ XVIII, nửa đầu thế kỷ XIX
Lực lượng sáng tác trở nên hùng hậu, chưa có giai đoạn nào lực lượng sáng tác lại trở nên đông đảo như giai đoạn này, thành phần giai cấp cũng trở nên phong phú. Trên văn đàn vừa có những ông hoàng, bà chúa, đặc biệt là sự có mặt của nhiều nhà thơ nữ. Lực lượng sáng chính tuy vẫn là các nho sĩ, nhưng bên cạnh những nho sĩ quan liêu, nho sĩ thuộc tầng lớp trên thì nho sĩ bình dân đã chiếm một vị trí đáng kể.
Ngay những nho sĩ quan liêu cũng đã có những đặt điểm khác với nho sĩ quan liêu ở các giai đoạn trước. kiến thức về văn hóa được mở rộng; vốn sống trở nên phong phú vì có những chuyến đi thực tế bất đắ dĩ.
2.1.2 Sự chuyển biến trong quan niệm sáng tác:
Quan niệm “văn dĩ tải đạo”, “thi ngôn chí” vốn là quan niệm chính thống của các nhà nho Việt Nam. Đến giai đoạn này những người cầm bút cũng chưa thoát khỏi quan niệm ấy, nhưng bên cạnh đó đã hình thành và phát triển một khuynh hướng thu hút đông đảo các nho sĩ sáng tác:Khuynh hướng hướng tới những con người bình thường, hướng tới cuộc sống xã hội rộng rãi. Chính quan niệm sáng tác chứa chan bản sắc nhân văn này đã tạo nên bước phát triển đẹp đẽ, rực rỡ của văn học giai đoạn nửa cuối thế kỷ XVIII, nửa đầu thế kỷ XIX.
2.2 Các khuynh hướng chính của văn học:
2.2.1 Khuynh hướng tố cáo hiện thực và nhân đạo chủ nghĩa:
Đây là khuynh hướng chủ đạo của văn học giai đoạn này. Những tác giả tiến bộ, nhiều tài năng đều thuộc khuynh hướng này. Khuynh hướng này còn thu hút nhiều tác giả mà thiên kiến chính trị còn có những hạn chế như Phạm Thái nhưng khi đi vào đời sống cá nhân họ lại có nhiều điểm gặp gỡ với yêu cầu dân chủ, nhân đạo của con người thời đại.
2.2.2.1 Phê phán hiện thực:
Văn học chữ Hán:
+ Trong những tác phẩm văn xuôi viết theo thế ký, bộ mặt của xã hội, của giai cấp thống trị được dựng lên khá đậm nét.
Xã hội Việt Nam vào những năm cuối thế kỷ XVIII, đầu thế kỷ XIX có nhiều biến động sâu sắc. Cuộc sống đó đòi hỏi văn học phải có một thể loại mới thích ứng với đối tượng đa dạng, đầy biến động. Và văn học đã đáp ứng yêu cầu đó của cuộc sống. Hàng loạt tác phẩm văn xuôi chữ Hán đã xuất hiện. Các tác giả gọi thể loại này bằng các tên như tùy bút, chí, kí, lục…(Vũ trung tùy bút, Tang thương ngẫu lục, Hoàng Lê nhất thống chí, thượng kinh kí sự, Công dư tiệp kí…)
Hoàng Lê nhất thống chí là bức tranh sinh động về cảnh thối nát của triều đình phong kiến lúc bấy giờ. Vua thì ngồi làm vì, chúa Trịnh nắm hết quyền hành thì hôn mê, mù quáng gây ra bè đảng trong phủ chúa, quan lại thì bất tài, cơ hội chủ nghĩa.
Tập bút kí đặc sắc Thượng kinh kí sự của Lê Hữu Trác đã ghi lại những điều mắt thấy, tai nghe trong chuyến lên kinh chữa bệnh cho Trịnh Cán
+ Trong thơ chữ Hán, nhiều nhà thơ đã đi sâu miêu tả cuộc sống của nhân dân. Cao Bá Quát, Phạm Nguyễn Du đã ghi lại những bức tranh sinh động về cuộc sống đói khổ của nhân dân. Trong thơ chữ hán của Nguyễn Du thường xuất hiện những bức tranh đối lập: một bên là cuộc sống đói khổ của nhân dân và một bên là cuộc sống xa hoa của giai cấp thống trị(Thái bình mại ca giả; Sở kiến hành…)
Văn học chữ Nôm
+ Khúc ngâm: Chinh phụ ngâm tố cáo chiến tranh phong kiến làm tan vỡ hạnh phút tình yêu của tuổi trẻ; Cung oán ngâm khúc tố cáo chế độ cung tần vô nhân đạo làm cho cuộc đời của bao cô gái tài sắc héo hắt, tàn lụi trong cung vua, phủ chúa.
+ Thơ Hồ Xuân Hương có khuynh hướng đi vào những nỗi đau đời thường nhưng không kém phần bi kịch của người phụ nữ bình bân và tố cáo toàn bộ nền đạo đức phong kiến.
+ Nguyễn Du tring Truyện Kiều thông qua cuộc đời của nhân vật chính đã tố cáo những thế lực tàn bạo của xã hội phong kiến đã chà đạp lên quyền sống của con người
Đặc điểm của sự phê phán, tố cáo của văn học giai đoạn này là các tác giả đứng trên lập trường nhân sinh để tố cáo tất cả những gì phản nhân sinh, phản tiến hóa vì thế mà diện hiện thực được tố cáo trong văn học được mở rộng và nội dung tố cáo cũng sâu sắc hơn.
2.2.1.2 Đề cao con người và đề cao cuộc sống trần tục:
+ Đề ccao con người:
Phát triển trong bối cảnh lịch sử mà chế độ phong kiến bước vào thời kỳ khủng hoảng, ý thức hệ phong kiến bị sụp đổ, trào lưu nhân văn đang bột phát lên như một tư trào, văn học giai đoạn này có một đặc trưng mang tính lịch sử là khám phá ra con người, khẳng định những giá trị chân chín của con người, phản ánh những khát vọng giải phóng của con người. Vấn đề trung tâm của văn học giai đoạn này là vấn đề giải phóng tình cảm của con người. Các truyện thơ nôm thường viết về đề tài tình yêu tự do, thể hiện những ước mơ của con người về tình yêu tự do không bị ràng buộc bởi luân lý, đạo đức phong kiến. Sơ kính tân trang, Phan Trần đều là những truyện tình thuần túy. Có thể nói chủ đề tình yêu tự do đã trở thành một chủ đề lớn và có sức hấp dẫn đối với các nhà nho.
Khám phám ra con người, văn học giai đoạn này đã lấy người phụ nữ làm đối tượng phản ánh chủ yếu. Người phụ nữ hiện lên trong văn học giai đoạn này với những số phận mang tính chất bi kịch và cũng rất tiêu biểu cho những phẩm chất, cho những giá trị đẹp đẽ của con người:Tài sắc, thủy chung, hiếu thảo, giàu ý thức và khát vọng sống hạnh phúc.
Bên cạnh hình tượng người phụ nữ, văn học giai đoạn này còn tập trung vào hình tượng anh hùng. Nếu ở giai đoạn trước hình tượng người anh hùng trong văn học là người anh hùng dân tộc thì đến giai đoạn này đã xuất hiện người anh hùng kiểu-Từ Hải- biểu trưng của khát vọng tự do và luân lý.
Hàng loạt tác phẩm như Chinh phụ ngâm, Cung oán ngâm khúc, thơ Hồ Xuân Hương, Sơ kính tân trang, Truyện kiều rồi nhiều truyện thơ nôm khác đều phản ánh những khát vọng của con người: Khát vọng hạnh phúc lứa đôi, khát vọng công lí, khát vọng tự do, chống lại những chủ trương khắc kỷ của nho giáo, tư tưởng diệt dục của phật giáo, hoặc những quan niệm phủ định quyền sống của con người, chống lại những thế lực tàn bạn như cường quyền, đồng tiền đạp lên quyền sống của con người.
Không phải đến giai đoạn này con người mới trở thành đối tượng của văn học nhưng phải đến giai đoạn này con người với tất cả sự phong phú của nó mới trở thành đối tượng chủ yếu, hàng đầu trong nhận thức của văn học.
+ Đề cao cuộc sống trần tục:
Nhiều tác phẩm đã đi sâu thể hiện khát vọng cuộn sống trọn vẹn cuộc đời trần thế của con người mà Chinh phụ ngâm,Thơ Hồ Xuân hương, Truyện Kiều là những tác phẩm tiêu biểu. Người chinh phụ trong Chinh phụ ngâm đã lên tiếng đòi được sống hạnh phúc ngay trên cuộc đời thế tục này chứ không phải ở kiếp sau mơ hồ nào:
“Đành muôn kiếp chữ tình là vậy
Theo kiếp này hơn thấy kiếp sau”
2.2.2 Khuynh hướng lạc quan:
Như phần bối cảnh đã trình bày, triều đại Quang Trung tuy tồn tại ngắn ngủi nhưng với những chính sách tiến bộ trên nhiều lĩnh vực, với những chiến công rạng rỡ tr6en mặt trận dân tộc dân chủ thì sự có mặt của triều đại này đạ thực sự đem đến cho đời sống tinh thần của dân tộc một sinh khí mới. Điều này đã để lại dấu ấn trong văn học. Đó là sự hình thành một khuynh hướng sáng tác mang màu sắc lạc quan.
Nội dung chủ yếu của khunh hướng này vẫn là khẳng định cuộc sống, khẳng định con người, mà tiêu biểu hơn cả là khẳng định công đức của vua Quang Trung trong sự nghiệp chống giặc cũng như trong sự nghiệp xây dựng đất nước với những tác phẩm tiêu biểu như Ai tư vãn của Lê Ngọc Hân, Tụng tây hồ phú của Nguyễn huy lượng, Hoàng lê nhất thống chí của Ngô gia văn phái…Một số tác phẩm khát lại thể hiện lòng yêu nước, yêu thiên nhiên, lòng tự hào dân tộc, tiêu biểu là sáng tác của Lê Quí Đôn.
2.2.3 Khuynh hướng thoát li, tiêu cực, bảo thủ:
Các tác giả giai đoạn này có nhiều mâu thuẫn trong tư tưởng, tình cảm nên khuynh hướng này có thể nhắc đến Nguyễn Gia Thiều, Đặng Trần Côn, Nguyễn Du, Nguyễn Công Trứ.
Một số tác giả đứng trên lập trường phong kiến Đàng Trong hoặc Đàng Ngoài mạt sát phong trào Tây Sơn như Hoàng Quang với Hoài nam ca khúc, Phạm Thái với Chiến tụng tây hồ phú, các ông vua nhà nguyễn như Tự Đức, Minh Mệnh và một bộ phận quan lại chịu ảnh hưởng sâu sắc của ý thức hệ nho giáo đã ca ngợi đạo đức, luân lý phong kiến. Với Nhị thập tứ hiếu, Lí Văn Phức đã đề cao chữ hiếu một cách cực đoan. Nguyễn Công Trứ là một nhà thơ có tài năng lớn, có hoài bảo lới nhưng cũng là con người có nhiều mâu thuẫn trong cuộc đời, trong văn học. Một trong những chủ đề lớn của thơ văn ông là Chí nam nhi. Nội dung của chủ đề này có nhiều khía cạnh tiến bộ và trong đó có chủ nghĩa tôn quân tuyệt đối. Chí làm trai của ông gắn liền với tinh thần làm quan sôi nổi, chí lập nghiệp đầy hào hứng.
Một số tác giả vốn là cựu thần, bề tôi của triều Lê-Trịnh, khi thấy vận mệnh của giai cấp mình bị nghẽn lối, họ đâm ra buồn,hoang mang, luyến tiếc quá khứ. Ở mức độ này có thể kể đến sáng tác của Nguyễn Gia Thiề, Nguyễn Hành, bà huyện Thanh Quan
2.3 Các đặc điểm chính của văn học:
2.3.1 Văn học dân tộc phát triển rực rỡ cả về số lượng lẫn chất lượng:
Ở cà hai bộ phận văn học Hán Nôm, đặc biệt là ở bộ phận văn học Nôm có sự phát triển nhảy vọt, phồn vinh chưa từng thấy. Điều này chứng tỏ sự trưởng thành đến mức thuần tục của văn học Nôm
+ Đội ngũ sáng tác được tăng cường, đó là kết quả của việc mở rộng việc học ở nông thôn
+ Nhờ có sự thay đổi quan niệm sáng tác do tác động của đời sống
+ Luật cấm chữ nôm không có tác dụng nữa
2.3.2 Nội dung và hình thức đều có sự phát triển, đổi mới và hoàn thiện:
2.3.2.1 Nội dung:
- Đề tài: Ở các giai đoạn trước, văn chương có khuynh hướng thiên về những đề tài phù hợp chức năng giáo huấn, với tính chất cao quí như đạo đức phong kiến, đạo đức làm người theo lý tưởng phong kiến. Văn chương chỉ nói những chuyện quốc gia đại sự. Đến gia đoạn này, đề tài của văn học không còn mang tính chất cao quý, văn học đề cập những vấn đề nóng bỏng của cuộc sống đời thường.
- Chủ đề: Có hai chủ đề chính, chủ đề số phận con người và tình yêu đôi lứa, bao trùm văn học thời đại vẫn là chủ đề số phận bi thảm của con người trong chế độ phong kiến suy tàn. Các tác phẩm ưu tú bằng cách này hay cách khác đều đề cập đến chủ đề này.
- Hình tượng trung tâm của văn học giai đoạn này là hình tượng ngưới phụ nữ với những phẩm chất tốt đẹp, với những niềm vui, nỗi buồn và sự bất hạnh khát vọng của họ.
- Tư tưởng rất phức tạp, nhiều khuynh hướng thậm chí đối lập nhau cùng tồn tại trong một tác giả và trong một tác phẩm. Trong đó khuynh hướng phê phán hiện thực và nhân đạo chủ nghĩa vẫn là khuynh hướng chính của văn học thời đại.
2.3.2.2 Hình thức:
Thể loại: những thể loại truyền thống của văn học dân tộc tiếp tục phát triển và hoàn thiện hơn. Sự nở rộ của truyện thơ Nôm và khúc ngâm đã làm đậm thêm nét đặc sắc của diện mạo văn học.
Thể loại tự sự:
+Truyện và kí có khuynh hướng vươn lên tiểu thuyết. Hoàng Lê nhất thống chí phản ánh chân thật một hiện thực có quy mô rộng lớn về không gian và thời gian. Với Truyện Kiều, nghệ thuật tượng trưng ước lệ đang thu dần phạm vi ảnh hưởng để nhường chỗ cho nghệ thuật hiện thực chủ nghĩa: Tác giả Truyện Kiều đã chú miêu tả sự tương quan giữa tính cách và hoàn cảnh, nội tâm nhân vật dưới ngòi bút của Nguyễn Du trở nên phong phú, phát triển theo logic tính cách. Giáo sư Lê Đình Kỵ cho rằng, với kiệt tác truyện kiều nguyễn Du đã đứng trước ngưỡng cửa của chủ nghĩa hiện thực.
Thể loại trữ tình:
+ Thơ Đường luật với Hồ Xuân Hương, Nguyễn Công Trứ đã được việt hóa nhiều..
+ Thể ca trù là một thể thơ trữ tình ngắn, so với thể thơ đường luật nó có dung lượng lớn hơn và cách luật cũng thỏa mái hơn. Thể này xuất hiện từ thế kỷ XVI với Lê Đức Mao nhưng sau đó không được dùng. Đến đầu thế kỷ XIX nó được dùng lại với các nhà thơ Nguyễn Công Trứ, Cao Bá Quát, Nguyễn Hàm Ninh.Ca trù của Nguyễn Công Trứ, Cao Bá Quát đã đạt đến trình độ mẫu mực mà các tác giả sau khó vượt qua.
Văn học sân khấu:
+ Đàng Trong Tuồng đạt đên mức mẫu mực
+ Đàng Ngoài Chèo rất phát triển
- Phương pháp sáng tác: Văn học giai đoạn này vẫn chưa thoát khỏi chủ nghĩa vi phạm là phương pháp lấy những mẫu mực, tiêu chuẩn mẫu mực để sáng tác dẫn đến công thức ước lệ. bên cạnh đó khuynh hướng hiện thực chủ nghĩa khá phát triển đặc biệt là ở hai tác phẩm Hoàng lê nhất thống chí và Truyện Kiều.
- Ngôn ngữ: Ngôn ngữ thơ ca trong văn học Nôm có bước phát triển so với giai đoạn trước, xu hướng trở về với dân tộc, với đời sống ngày càng tăng, các xu hướng này đã có từ trước nhưng đến giai đoạn này phát triển mạnh hơn.
2.3.3. Ảnh hưởng qua lại của văn học dân gian và văn học viết trở nên sâu rộng, đặc biệt là ảnh hưởng của văn học dân gian vào văn học viết ở cả hai bộ phận Hán và Nôm rất rõ.
3. Kết luật:
Đây là giai đoạn thuần tục của nền văn học viết dưới chế độ phong kiến, là giai đoạn đặt cơ sở để nền văn học bước snag thời kỳ hiện đại.
Vần đề trung tâm của văn học giai đoạn này là vấn đề số phận con người trong chế độ phong kiến suy tàn.


Vấn đề 4: Văn học trung đại 3
Văn học yêu nước Việt Nam nửa cuối thế kỷ XIX(1858-1900)

I. Bối cảnh lịch sử:
1.1 Pháp lâm lược Việt Nam:
Vào cuối thế kỷ XIX, Pháp lấy cớ triều đình nhà Nguyễn đã bắn chết các giáo sư của họ và ngăn chặn thông thương để chính thức xâm lược Việt Nam. Sự kiện này có sức ảnh hưởng mạnh mẽ đến toàn xã hội.
1.2 phong trào đấu tranh chống Pháp:
Lúc đầu, giai cấp phong kiến cũng chống đối thực dân Pháp nhưng càng về sau sự chống đối này càng yếu và cuối cùng dẫn đến việc thỏa hiệp, đầu hàng Pháp, chỉ có nhân dân ta là đấu tranh quyết liệt, khởi nghĩa nổ ra khắp nơi, tiêu biểu như các cuộc khởi nghĩa nông dân của Ba Cai Vàng, Đoàn Hữu Trưng, Trần Tấn…Tiếp đó là các sĩ phu, lãnh binh cũng đứng lên lãnh đạo nhân dân khởi nghĩa như phan Đình Phùng, Đing Công Tráng, Tống Duy Tân, Nguyễn Thiện Thuật, Hoàng Hoa Thám…Tuy nhiên do thiếu lực lượng hậu thuẫn nên các phong trào đấu tranh đều thất bại. Đây được coi là giai đoạn lịch sử đau thương nhưng hùng tráng của dân tộc Việt Nam nhiều hy sinh mất mát nhưng tự hào. Dù tất cả các cuộc khởi nghĩa đều thất bại nhưng nó chứng tỏ được tinh thần dũng cảm, lòng yêu nước nồng nàn của nhân dân ta.
1.3 Sự phân hóa giai cấp trong xã hội:
Mỗi tầng lớp bị phân hóa đều mang tâm lý và thái độ chính trị riêng. Tâm lí chủ yếu của giai cấp thống trị phong kiến là thỏa hiệp, dầu hàng.. Tuy nhiên, trong đó có một số sĩ phu, trí thức tiếp thu được truyền thống yêu nước của dân tộc, sống gần gũi với nhân dân nên hăng hái đâu tranh. Những nhà văn nhà thơ yêu nước cũng tham gia chiến đấu bằng ngòi bút, qua ngòi bút họ thể hiện thái độ và tâm tư của mình. Nhiều tầng lớp mới cũng xuất hiện như tư sản, tiểu tư sản và vô sản. Giai cấp vô sản thì lớn mạnh nhanh chóng nhưng tư sản thì do mới hình thành nên chưa đủ mạnh để chống lại tư sản chính quốc, cũng chưa đủ mạnh để tham gia phong trào yêu nước. Tuy đã xuất hiện nhiều giai cấp mới nhưng do những sáng tác ở giai đoạn này vẫn thuộc về giai cấp cũ nên văn học vẫn chịu sự chi phối rất lớn của ý thức hệ phong kiến.
1.4 Văn hóa tư tư
Thâu lược văn học Thtx_014
Thâu lược văn học Thtx_015Thâu lược văn học Thtx_016Thâu lược văn học Thtx_017



Thâu lược văn học Ava_0110Thâu lược văn học Ava_0310
Anonymous
Thâu lược văn học Ava_0710Thâu lược văn học Ava_0910
Relay
Danh Hiệu Khách viếng thăm

Thâu lược văn học Vide10
Thâu lược văn học Thtx_010Thâu lược văn học Thtx_011Thâu lược văn học Thtx_012
Thâu lược văn học Thtx_013

Tiêu Đề: Thâu lược văn học



Bài viết hay đó.

Nhưng bạn nên xem lại cách trình bày. Chữ nhỏ mà nhiều quá nên hơi khó đọc. Có thể chia ra làm nhiều phần để post sẽ hay hơn. Nên cho chữ bự ra và đôi khi có chút màu mè cho đẹp!


Thêm vài biểu tượng cho vui.... Thâu lược văn học 735950 Thâu lược văn học 119517 Thâu lược văn học 539433
Thâu lược văn học Thtx_014
Thâu lược văn học Thtx_015Thâu lược văn học Thtx_016Thâu lược văn học Thtx_017



Thâu lược văn học Ava_0110Thâu lược văn học Ava_0310
avatar
Thâu lược văn học Ava_0710Thâu lược văn học Ava_0910
thach Hien
Danh Hiệu Binh Nhất

Binh Nhất
Tổng số bài gửi : 3
Join date : 06/01/2011
Thâu lược văn học Vide10
Thâu lược văn học Thtx_010Thâu lược văn học Thtx_011Thâu lược văn học Thtx_012
Thâu lược văn học Thtx_013

Tiêu Đề: Thâu lược văn học




Thanks!
Thâu lược văn học 404726
Thâu lược văn học Thtx_014
Thâu lược văn học Thtx_015Thâu lược văn học Thtx_016Thâu lược văn học Thtx_017



Thâu lược văn học Ava_0110Thâu lược văn học Ava_0310
Thâu lược văn học Ava_0710Thâu lược văn học Ava_0910
Sponsored content
Danh Hiệu
Thâu lược văn học Vide10
Thâu lược văn học Thtx_010Thâu lược văn học Thtx_011Thâu lược văn học Thtx_012
Thâu lược văn học Thtx_013

Tiêu Đề: Thâu lược văn học



Thâu lược văn học Thtx_014
Thâu lược văn học Thtx_015Thâu lược văn học Thtx_016Thâu lược văn học Thtx_017



Xem chủ đề cũ hơnXem chủ đề mới hơn Về Đầu TrangThông điệp [Trang 1 trong tổng số 1 trang]

Bình luận về bài viết

Bạn cần để bình luận về bài viết


Nếu chưa có tài khoản bạn vui lòng tài khoản

Quyền hạn của bạn:
Bạn không có quyền trả lời bài viết